Báo cáo triển vọng thị trường chứng khoán năm 2023 của KB Securities Việt Nam (KBSV) nhận định, cung tiền M2 là yếu tố có tác động mạnh lên diễn biến thị trường chứng khoán (TTCK) do các giai đoạn M2 tăng mạnh, đi kèm với mặt bằng lãi suất ở mức thấp và dòng tiền dồi dào chảy vào TTCK giúp VNIndex tăng điểm, và ngược lại.
Các giai đoạn 2006 – 2007, 2009, 2016 -2017, 2020 – 2021, TTCK Việt Nam đều có xu hướng tăng trưởng mạnh đi kèm với cung tiền M2 tăng cao (lớn hơn 14%) nhờ kết hợp của nhiều yếu tố như: chính sách tiền tệ mở rộng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cao bao gồm cả chi đầu tư công của Chính phủ (với tỷ lệ giải ngân trên 90%), và vay mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước, trong khi nguồn vốn nước ngoài chảy vào (thông qua các kênh FDI, FII, xuất siêu, kiều hối) cũng dồi dào.
Ngược lại, thị trường các giai đoạn 2011, 2018, và 2022 TTCK Việt Nam đều có xu hướng điều chỉnh đi kèm cùng tiền M2 tăng trưởng thấp (thấp hơn 12,5%) trước các yếu tố bất lợi bên trong và bên ngoài.
Xét riêng trong năm 2022, tăng trưởng cung tiền M2 đạt mức thấp kỷ lục ước tính đạt 6% -7%, so với mức bình quân 14% cho giai đoạn 2012- 2021 và là 1 trong những nguyên nhân quan trọng khiến TTCK Việt Nam lao dốc. Cung tiền sụt giảm do 2 nguyên nhân.
Thứ nhất là chính sách tiền tệ của NHNN, khi tỷ giá và thị trường ngoại tệ bị chịu áp lực do cân đối cung cầu ngoại tệ và thị trường quốc tế có diễn biến bất lợi (Fed 5 lần nâng lãi suất điều hành để kìm cương đà tăng của lạm phát, và DXY Index tăng mạnh kể từ đầu năm) đã gây áp lực lên thị trường trong nước, buộc NHNN phải bán ngoại tệ khi cần thiết để ổn định thị trường. Cụ thể, tổng lượng USD đã bán ước tính khoảng 25 tỷ USD (trong đó 18 tỷ USD đã thực hiện và còn 7 tỷ USD bán kỳ hạn đáo hạn trong quý 1/2023), tương ứng NHNN đã hút về khoảng 400 nghìn tỷ VND trong lưu thông, gia tăng áp lực thiếu thanh khoản tiền VND trong hệ thống.
Thứ hai là chi tiêu giải ngân đầu tư công của chính phủ ở mức thấp, tiền gửi không kỳ hạn của kho bạc nhà nước để tại NHNN ước tính tăng thêm 200 nghìn trong năm 2022 đến từ việc thặng dư ngân sách nhà nước (số dư cuối năm 2021 đạt 600 nghìn tỷ – biểu đồ 40). Theo Bộ Tài chính, ước tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước 11 tháng năm 2022 mới đạt 52,43% kế hoạch.
Dự báo cho năm 2023, KBSV cho rằng tăng trưởng cung tiền sẽ chịu tác động trái chiều. Trong đó, điều tích cực là NHNN sẽ có dư địa để nới lỏng chính sách hơn trong năm 2023 khi áp lực tỷ giá và lạm phát được dự báo bớt căng thẳng hơn so với năm 2022, khi các đứt gãy chuỗi cung ứng dần được cải thiện và nhu cầu tiêu thụ toàn cầu sụt giảm giúp giá hàng hoá hạ nhiệt, trong khi FED được dự báo sẽ sớm kết thúc chu kỳ tăng lãi suất vào cuối quý I. Theo đó, NHNN có thể thực hiện lại nghiệp vụ mua USD, trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ tốt đến từ thặng dư thương mại, kiều hối và FDI, vay nợ ròng nước ngoài, qua đó giúp tăng dự trữ ngoại hối và hỗ trợ thanh khoản hệ thống, kéo giảm mặt bằng lãi suất huy động cũng như cải thiện tăng trưởng cung tiền.
Tỷ lệ thực hiện giải ngân vốn đầu tư công kỳ vọng cải thiện dự báo đạt trên 80% kế hoạch (so với mức 75% của năm 2022), giúp khơi thông nguồn vốn bị tắc nghẽn ở kho bạc, hỗ trợ thanh khoản nền kinh tế. Các động lực thúc đẩy đầu tư công cho năm 2023 bao gồm: giá hàng hoá nguyên vật liệu xây dựng hạ nhiệt; năm 2022 là năm thứ 2 thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm nên thường có tỷ lệ giải ngân thấp; các động lực tăng trưởng khác của năm 2023 suy yếu khiến đầu tư công quay trở lại làm điểm tựa.
Tuy nhiên, ngược lại, KBSV cho rằng vẫn có những yếu tố tiêu cực như nhu cầu vay vốn mới của các doanh nghiệp và hộ gia đình dự báo suy giảm do mặt bằng lãi suất ở mức cao, trong khi điều kiện kinh doanh dự báo kém thuận lợi hơn trong năm 2023. Thanh khoản hệ thống dù được dự báo bớt căng thẳng nhưng khó có thể sớm quay trở về mức ổn định.
Việc Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ thúc đẩy giá dầu khí nói riêng và nguyên liệu thô toàn cầu nói chung đi lên và gây áp lực lên giá của nhiều hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ khác và làm cho lạm phát toàn cầu bật tăng trở lại, khiến các ngân hàng trung ương trên thế giới có thể sẽ duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt với thời gian dài hơn kỳ vọng
Rủi ro liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) cũng đáng chú ý khi mà áp lực đáo hạn vào năm 2023 là rất lớn. Một lượng tín dụng đáng kể sẽ được sử dụng để phục vụ mục đích tất toán TPDN, khiến nguồn cung tín dụng thực tế bị thu hẹp. Hơn nữa, trong kịch bản tiêu cực nợ xấu ngân hàng tăng mạnh dưới ảnh hưởng bởi sự đổ vỡ của thị trường TPDN, hoạt động cho vay của các ngân hàng nhiều khả năng sẽ bị thu hẹp đáng kể khiến cung tiền tăng trưởng chậm lại.
Với cơ sở như trên, cho năm 2023, KBSV dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ đạt 13-14 %, huy động tăng cao đạt 12% giúp cung tiền tăng trở lại 13% – một phần do nền thấp của năm 2022. Thanh khoản hệ thống theo đó cũng sẽ bớt căng thẳng hơn, tạo điều kiện nền lãi suất sẽ hạ nhiệt so với cuối Quý 4/2022, dù vẫn duy trì ở mức cao. Với mối tương quan cao của M2 và P/E VNIndex như phân tích ở trên, việc M2 tăng trưởng trở lại là động lực quan trọng giúp P/E thị trường cân bằng trở lại và hướng về mốc trung tính.